Diễn biến Vụ án Tống Văn Sơ

Bị bắt tại Cửu Long

Hồng Kông vào thập niên 1930

Khoảng đầu thập niên 1930, mạng lưới tình báo Anh-Pháp tăng cường hoạt động tại Châu Á, đặc biệt khu vực Đông Nam Á, nhằm chống lại sự bành trướng của Quốc tế Cộng sản.[6][7] Một đặc phái viên của Quốc tế Cộng sản, Serge Lefranc (còn có tên khác: Joseph Ducroux) đã bị Sở Liêm phóng Pháp đọc trộm thư từ liên lạc và thông báo cho cơ quan tình báo Anh tại xứ Mã Lay thuộc Anh. Ngày 1 tháng 6 năm 1931, Lefranc bị bắt cùng 16 thành viên khác khi đang hoạt động tại Singapore.[8]

Từ những sổ tay và thư từ của Lefranc, tình báo Anh lần ra thông tin những thành viên Quốc tế Cộng sản đang hoạt động tại Trung Quốc và Hồng Kông. Hilaire Noulens[lower-alpha 1], Thư ký Chi nhánh Bộ Phương Đông (Bộ Liên lạc Quốc tế), cấp trên của Lefranc, bị bắt tại Thượng Hải (Trung Quốc) vào tháng 6 năm 1931.[10] Địa chỉ Nguyễn Ái Quốc đang ở Hồng Kông cũng bị tình báo Anh phát hiện. Vào lúc 2:00 sáng ngày 6 tháng 6 năm 1931, tại nhà số 186 phố Tam Kung, Cửu Long (Kowloon), một tốp cảnh sát ập vào bắt giữ Nguyễn Ái Quốc khi đó đang ở cùng Lý Phương Thuận (tên tiếng Anh: Ly Sam[11] hoặc Ly Ung Thuan[12], vợ của Hồ Tùng Mậu[12]). Thời điểm bị bắt, Nguyễn Ái Quốc mang giấy tờ tùy thân tên Tống Văn Sơ, quốc tịch Trung Quốc.[11] Nguyễn Ái Quốc bị bắt với nghi vấn tuyên truyền phản động chống chính quyền Anh quốc theo Sắc lệnh cấm xuất bản tài liệu phản động năm 1914 [lower-alpha 2] của chính quyền thuộc địa Hồng Kông. Nguyễn Ái Quốc bị đưa về Nhà tù Victoria (Hồng Kông).[10]

Toàn Quyền Pháp René Robin tại Hà Nội nhận được tin báo về việc bắt được Nguyễn Ái Quốc và đề nghị chính quyền Anh tại Hồng Kông thực hiện dẫn độ về Việt Nam để xét xử. Đổi lại, Pháp hứa sẽ giao cho phía Anh số tù nhân là đảng viên cộng sản Ấn ĐộMiến Điện (Myanmar) bị bắt trên đất thuộc Pháp. Tuy nhiên, do Nguyễn Ái Quốc là nghi phạm chính trị, mà theo đạo luật Dẫn Độ năm 1870 [lower-alpha 3] do Hạ viện Anh ban hành, không cho phép dẫn độ các nghi can phạm các tội chính trị ra khỏi lãnh thổ và thuộc địa Anh. Giữa Anh và Pháp lúc đó cũng không có hiệp ước dẫn độ riêng nào. Do vậy, phía chính quyền thuộc địa Anh ở Hồng Kông không thể làm theo yêu cầu dẫn độ của Pháp.

Lệnh trục xuất đầu tiên

Sau khi bắt giữ Tống Văn Sơ, chính quyền Hồng Kông lùng sục nơi ở của ông nhưng không tìm được tài liệu nào để chứng minh ông phạm tội dưới Sắc lệnh cấm xuất bản tài liệu phản động. Do vậy, sau 6 ngày tạm giam, Chính quyền Hồng Kông ra quyết định trục xuất Nguyễn Ái Quốc viện dẫn Sắc lệnh Trục xuất năm 1917[lower-alpha 4]. Theo sắc lệnh này, người bị trục xuất sẽ phải bị áp giải với lính canh trên một chiếc tàu đến một điểm đến được định trước.[13] Do vậy, theo kế hoạch của chính quyền Hồng Kông, Nguyễn Ái Quốc sẽ phải rời Hồng Kông trên một chuyến tàu của Pháp với điểm đến là Việt Nam, nơi sinh của ông. Quyết định trục xuất này của chính quyền Hồng Kông là kết quả thỏa thuận ngầm giữa họ và Tổng lãnh sự Pháp tại Hồng Kông. Thống đốc Hồng Kông khi đó, Ngài (Sir) William Peel muốn thực hiện một cách kín đáo nhất, tránh để lọt tới chính quyền Anh tại London.[14]

Thống đốc Hồng Kông giai đoạn 1930-1935, William Peel

Tuy nhiên, ngày 19 tháng 6 năm 1931, tờ báo Nhân Đạo (L'Humanite) thuộc Đảng Cộng sản Pháp và các tờ báo thiên tả khác, dưới sự hậu thuẫn thông tin từ Quốc tế Cộng sản, đồng loạt đăng tin vụ bắt giữ Tống Văn Sơ ở Hồng Kông. Ngày 22 và 23 tháng 6, hai tờ báo lớn ở Hồng Kông là Hương Cảng Điện Báo (Hong Kong Telegraph) và Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng (South China Morning Post) đưa tin vụ bắt giữ.[14][15] Ngày 23 tháng 6, báo The Times (Anh) cáo buộc Nguyễn Ái Quốc bị chính quyền Hồng Kông bắt theo yêu cầu của Pháp và phía Pháp đề nghị dẫn độ.[16] Bộ Thuộc Địa Anh[lower-alpha 5] – cơ quan nhà nước có trách nhiệm xử lý các vấn đề thuộc địa – bày tỏ quan ngại và chống lại việc dẫn độ. Sắc lệnh Trục xuất năm 1917 quy định việc Thống đốc Hồng Kông phải báo cáo cho Bộ Thuộc Địa Anh về những vấn đề liên quan đến lệnh trục xuất.[16]

Sử gia William Duiker cho biết, theo luật trục xuất thời đó, chính quyền phải thực hiện thẩm vấn trục xuất để xác định nhân thân và nơi sinh nghi phạm trước khi chính thức trục xuất.[13] Cuộc thẩm vấn diễn ra ngày 10 tháng 7 năm 1931. Trong cuộc thẩm vấn bằng tiếng Anh, nghi phạm phủ nhận việc mình tên là Nguyễn Ái Quốc mà mang tên Tống Văn Sơ và là người Trung Quốc chứ không phải Việt Nam. Ông nói mình sinh ra ở một thị trấn nhỏ ở tỉnh Quảng Tây gần biên giới Việt Nam. Ông thừa nhận đã đến Pháp nhưng chưa từng đến Liên Xô cũng như chưa bao giờ liên hệ với nhóm Quốc tế Cộng sản. Ông phủ nhận việc quen biết Serge Lefranc, nhưng khi ban thẩm vấn đưa ra một tấm bưu thiếp tại nơi ở Lefranc thì ông thừa nhận đã ký tên trên tấm bưu thiếp đó. Ông liên tục phản đối việc bị trục xuất đến Đông Dương mà muốn được trục xuất đến Anh quốc.[17]

Để cứu Tống Văn Sơ không bị trục xuất khỏi Hồng Kông, tổ chức Cứu tế Đỏ Quốc tế[lower-alpha 6], một cơ quan thuộc Quốc tế Cộng sản, đã thuê luật sư Francis Henry Loseby, một người xu hướng thiên tả, làm luật sư tư vấn (solicitor)[lower-alpha 7], để hỗ trợ pháp lý vụ án Tống Văn Sơ.[18] Ngay sau khi tham gia vụ án Tống Văn Sơ và tìm hiểu thông tin, Loseby cảnh báo với chính quyền Hồng Kông rằng nếu Tống Văn Sơ bị trục xuất, Pháp sẽ bắt giữ ngay khi vừa rời khỏi đất Hồng Kông và bị đưa về Đông Dương để xét xử ngay. Ông yêu cầu chính quyền Hồng Kông phải thả Tống Văn Sơ ra và cho phép Tống tự do đến nơi mà anh muốn.

Thống đốc Hồng Kông William Peel có lẽ đã muốn chấp thuận yêu cầu của luật sư Loseby. Trong bức điện tín báo cáo với Bộ Thuộc địa Anh tại London, Thống đốc Peel đề nghị nên thả tự do Tống Văn Sơ với điều kiện Tống phải rời Hồng Kông trong vòng 7 ngày. Theo ông, nếu trục xuất Tống về Đông Dương sẽ giống như một vụ dẫn độ trá hình[lower-alpha 8] và đi ngược lại những nguyên tắc công pháp của Anh quốc.[19] Lúc này, áp lực từ báo chí tuyên truyền bởi tổ chức Quốc tế Cộng sản về vụ án Tống Văn Sơ đang lan rộng trên thế giới, Bộ Thuộc địa Anh đã cân nhắc lời đề nghị của Thống đốc Hồng Kông.

Tuy nhiên, phía chính quyền Pháp cũng quyết tâm thực hiện kế hoạch dẫn độ Tống Văn Sơ. Đại sứ Pháp tại London, Jules Cambon, bày tỏ sự quan điểm với chính phủ Anh rằng: "Tống Văn Sơ (Nguyễn Ái Quốc) là một 'mối hiểm họa trên bình diện quốc tế'[lower-alpha 9] và đề nghị không được thả tự do". Bộ Ngoại giao Anh quốc[lower-alpha 10] muốn làm hài lòng phía chính phủ Pháp vì hai bên sẽ cùng hợp tác trong những hoạt động đàn áp nổi dậy trong khu vực Châu Á, nên đề nghị phải trục xuất Tống về Việt Nam như ý Pháp mong muốn. Do vậy, Thống đốc Hồng Kông đành phải tống đạt lệnh trục xuất thứ hai cho Tống Văn Sơ.[19]

Để ngăn cản lệnh trục xuất của Thống đốc Hồng Kông, ngày 31 tháng 7 năm 1931, luật sư Loseby nộp đơn xin lệnh đình quyền giam giữ (Habeas Corpus)[20] lên Toà Thượng thẩm Tối cao Hồng Kông –Tòa án cao nhất trong hệ thống tư pháp Hồng Kông– nhằm đưa vụ bắt giữ Tống Văn Sơ ra xét xử phiên tòa công khai.[21] Đồng thời, yêu cầu triệu tập bên bị gồm Tổng đốc các trại giam tại Hồng Kông[lower-alpha 11] lên toà để giải thích lý do pháp lý của việc giam giữ Tống Văn Sơ mà không thông qua xét xử. Loseby thuê hai luật sư tranh tụng (barrister)[lower-alpha 12] để tham gia vụ kiện.

Tranh tụng tại Tòa Thượng thẩm Tối cao Hồng Kông

Từ ngày 14 tháng 8 đến 11 tháng 9 năm 1931, Toà Thượng thẩm Tối cao Hồng Kông tổ chức tổng cộng 9 phiên tranh tụng vụ án giữa Tống Văn Sơ (bên nguyên đơn) và Tổng đốc trại giam Hồng Kông và Thống đốc Hồng Kông (bên bị đơn).[22] Nhóm luật sư do Loseby dẫn đầu cùng với 2 luật sư tranh tụng F. C. Jenkin và A. M. L. Soares, đứng ra bảo vệ bên nguyên.

Sau hai phiên tranh tụng đầu tiên (ngày 14 và 15 tháng 8), Thẩm phán tối cao[lower-alpha 13] Ngài (Sir) Joseph Kemp cảnh báo với bên bị đơn (chính quyền Hồng Kông) rằng có thể tòa sẽ bác lệnh trục xuất ban đầu của Thống đốc Hồng Kông. Ngay trong hôm đó (15/8/1931), Thống đốc Hồng Kông tống đạt lệnh trục xuất mới dành cho Tống Văn Sơ ngay tại tòa, viện dẫn một điều khoản khác trong Sắc lệnh Trục xuất năm 1917.[21] Luật sư Jenkin phản đối lệnh trục xuất thứ hai này của Thống đốc Hồng Kông. Jenkin gọi lệnh trục xuất này là một “sự yếm trá”[10][18] và là “một sự lạm dụng quyền hành pháp”[23] của chính quyền Hồng Kông.

Ngày 11 tháng 9 năm 1931, Toà Thượng thẩm Hồng Kông bác đơn Tống Văn Sơ và xác nhận tính hợp pháp cho lệnh trục xuất thứ hai của chính quyền Hồng Kông. Tòa cho rằng, tuy lệnh trục xuất này có thể liên quan đến việc dẫn độ nếu xét trên phương diện chính trị, nhưng hoàn toàn không vi phạm luật Anh quốc.[21] Tống Văn Sơ một lần nữa đứng trước nguy cơ bị trục xuất đến Đông Dương.

Kháng án lên Cơ Mật Viện Hoàng gia Anh

Ủy ban Tư pháp Cơ Mật Viện Anh quốc tại London (Anh)

Phía luật sư của Tống Văn Sơ ngay lập tức kháng án đến Ủy ban Tư pháp thuộc Viện Cơ mật Hoàng gia Anh (Privy Council)[lower-alpha 14], nơi có thẩm quyền tối cao đối với các vụ án xảy ra tại các xứ thuộc địa của Anh. Họ cho rằng lệnh trục xuất Tống Văn Sơ không có giá trị dưới luật pháp Hồng Kông.

Luật sư Denis Nowell Pritt

Vì lịch làm việc của Viện Cơ mật chỉ có thể xử vụ việc của Tống Văn Sơ sớm nhất ít nhất một năm sau đó[18], nên Tống Văn Sơ vẫn phải bị giam tại Hồng Kông. Tuy nhiên, do ông không phạm tội hình sự nào, nên chính quyền Hồng Kông chuyển ông từ Nhà tù Victoria về bệnh xá nhà tù Bowen Road (sau này là Bệnh viện Quân y Anh quốc). Thời điểm đó, sức khỏe ông suy nhược, thể trạng tiều tụy. Trong lá thư gửi đồng chí của ông là Lâm Đức Thụ, vào tháng 11 năm 1931, Tống Văn Sơ nói sức khỏe ông đang rất yếu và thường nôn ra máu.[24] Hoàng thân Cường Để đã gửi thư cho Tống Văn Sơ khi biết ông bệnh nặng và còn gửi 300 yên để hỗ trợ viện phí.[25][26]

Richard Stafford Cripps

Đến đầu năm 1932, đơn kháng cáo của Tống Văn Sơ được đưa ra xét xử tại Ủy ban Luật pháp thuộc Viện Cơ mật Hoàng gia Anh. Lần này, luật sư đại diện Tống Văn Sơ là Denis Nowell Pritt – một luật sư danh tiếng người Anh, thành viên Công Đảng Anh, quan điểm thiên tả cực đoan và có xu hướng ủng hộ Liên Xô.[lower-alpha 15] Còn đại diện Cơ Mật Viện là Ngài (Sir) Richard Stafford Cripps – đang giữ cương vị Phó Chưởng lý (Solicitor General) tại Anh, cũng thuộc Công Đảng Anh, quan điểm thiên tả, sau này trở thành Đại sứ Anh tại Liên Xô.[30]

Sau khi tìm hiểu vụ kiện, Cripps cho rằng lệnh trục xuất của chính quyền Hồng Kông là trái pháp luật. Ông cho rằng lệnh trục xuất của chính quyền Hồng Kông sẽ bị bác tại tòa Cơ Mật Viện và Tống Văn Sơ sẽ được thả tự do. Ông lo ngại rằng nếu thả Tống Văn Sơ ra, vừa làm phật lòng chính phủ Pháp, mà còn gây ảnh hưởng đến uy tín của chính quyền Hồng Kông cũng như chính phủ Anh, tạo án lệ không tốt sau này. Theo nhà nghiên cứu Dennis Duncanson, chuyên viên pháp lý Harold Bushe cáo buộc Cripps đồng tình với quan điểm chính trị của bên nguyên (Tống Văn Sơ), do vậy tìm cớ từ chối tranh tụng trước Viện Cơ mật.[31]

Ngày 27 tháng 6 năm 1932, Cripps thay mặt Bộ Thuộc địa và chính quyền Hồng Kông, dàn xếp ngoài tòa (out-of-court) với Luật sư Pritt.[32] Sau đó, phía nguyên đơn của Luật sư Pritt chủ động rút đơn kháng án với điều kiện kết quả phải có lợi cho Tống Văn Sơ. Phiên tranh tụng giữa hai bên, do vậy, chưa bao giờ diễn ra trước tòa Cơ Mật Viện.

Ngày 21 tháng 7 năm 1932, vì bên nguyên đã rút kháng án, Cơ Mật Viện đưa ra phán quyết với 4 điều khoản. Thứ nhất, Tống Văn Sơ phải bị trục xuất khỏi Hồng Kông và không được trở lại trong vòng 10 năm. Thứ hai, nơi đến sau khi trục xuất không phải lãnh thổ Pháp, thuộc địa bảo hộ của Pháp, và không rời khỏi Hồng Kông bằng tàu Pháp. Thứ ba, Thống đốc Hồng Kông sẽ nỗ lực tối đa đảm bảo nguyên đơn (Tống Văn Sơ) được trục xuất đến nơi mà nguyên đơn mong muốn. Cuối cùng, chính quyền Hồng Kông sẽ góp 250 bảng Anh vào chi phí tố tụng cho bên nguyên đơn.[33]

Thoát khỏi nhà tù Hồng Kông

Sau phiên kháng cáo tại Cơ Mật Viện, Nguyễn Ái Quốc có thể được thả tự do. Nhưng ông lo sợ sẽ bị chính quyền Pháp bắt khi đang trên đường đến London. Do tàu Liên Xô không cập cảng Hồng Kông được, Luật sư Loseby yêu cầu chính quyền Anh quốc hỗ trợ một địa điểm tị nạn tạm thời thuộc lãnh thổ Anh cho Nguyễn Ái Quốc. Vì lo sợ sẽ bị chính quyền Pháp bắt khi đi ngang kênh đào Suez và thành phố Port Said (Ai Cập), Nguyễn Ái Quốc yêu cầu được tị nạn tại Úc hoặc Nam Phi trước khi đến Châu Âu. Hai nước này đều từ chối lời yêu cầu.[32] Đứng trước tình thế này, ông đành phải từ bỏ ý định đến Anh, và chọn Moskva làm điểm đến sau khi được thả.

Ngày 28 tháng 12 năm 1932, Nguyễn Ái Quốc được rời khỏi bệnh viện nhà tù Bowden Road, chính thức được tự do sau 18 tháng bị giam giữ. Chính quyền Hồng Kông ra lệnh ông phải rời khỏi Hồng Kông trong vòng 21 ngày. Gia đình Luật sư Loseby đón ông và giúp ông thu xếp để rời Hồng Kông. Nguyễn Ái Quốc cải trang thành một nhà Nho Trung Hoa với bộ râu giả, tạm trú bí mật tại Hiệp hội Thanh niên Cơ Đốc (YMCA) tại bán đảo Cửu Long chờ ngày rời Hồng Kông.[34]

Nguyễn Ái Quốc quyết định sẽ đến Moskva. Tuy nhiên, nếu muốn đến Moskva từ Hồng Kông, phải chuyển tàu tại Thượng Hải hoặc Singapore, rồi cập cảng Vladivostok, thành phố biển phía Đông nước Nga. Nguyễn Ái Quốc chọn đi Singapore.

Ngày 6 tháng 1 năm 1933, với sự hỗ trợ của Luật sư Loseby, Nguyễn Ái Quốc đến Singapore. Cảnh sát bán đảo Malay (Singapore ngày nay), khi đó đã được báo tin, đã từ chối cho Nguyễn Ái Quốc cập cảng, lấy lý do ông chưa nộp đơn xin nhập cảnh. Đến ngày 15 tháng 1, Nguyễn Ái Quốc buộc phải đi tàu trở lại Hồng Kông trên chiếc tàu Ho Sang.[35] Khi tàu cập cảng Hồng Kông ngày 19 tháng 1 năm 1933, cảnh sát Hồng Kông bắt Nguyễn Ái Quốc lần hai vì vi phạm lệnh của tòa (cấm trở lại Hồng Kông trong vòng 10 năm).[36]

Bến tàu Hồng Kông thập niên 1930

Khi nghe tin Nguyễn Ái Quốc bị bắt lần hai, Loseby khẩn cầu Thống đốc Hồng Kông William Peel can thiệp và đứng ra bảo đảm cho Nguyễn Ái Quốc. Thống đốc Peel ra lệnh thả Nguyễn Ái Quốc và yêu cầu ông phải rời khỏi Hồng Kông trong vòng 3 ngày. Để tránh tai mắt của mật thám Pháp, lần này Loseby cho ông ở tại một địa điểm bí mật tại Tân Giới (New Territories), đồng thời tìm một hướng khác để thoát khỏi Hồng Kông. Một thư ký của luật sư Loseby, Lung Ting-chang, được sắp xếp đi cùng Nguyễn Ái Quốc.[7] Họ biết một chiếc tàu sẽ đến Hạ Môn (tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc)[lower-alpha 16] vài ngày tới. Lần này, họ bí mật sắp xếp cho Nguyễn Ái Quốc chạy trốn trong đêm.

Ngày 22 tháng 1 năm 1933, cải trang thành một thương nhân giàu có[37] Nguyễn Ái Quốc rời Hồng Kông bí mật trên một chiếc thuyền nhỏ, được thuê bởi chính quyền Hồng Kông, vượt ra eo biển Lý Ngư Môn (Lei Yue Mun) để đến chiếc tàu lớn An Huy đang chờ sẵn ngoài khơi.[35][38] Sau đó, Nguyễn Ái Quốc đã chính thức rời Hồng Kông trên tàu An Huy để đến Hạ Môn, từ đó đi Thượng Hải, Vladivostok và Moskva.